MỘT CÂU CHUYỆN THỜI QUÁ KHỨ
Sutasoma
và Brahmadatta,[1] là vương
tử của nước Câu-lâu và Ba-la-nại. Lệ là trước khi thành quốc vương đều được gởi
đến một vị danh sư để học pháp. Suta, chẳng bao lâu đạt đến tài năng giảng dạy,
nhưng lại không muốn thăm hỏi các bạn khác nhiều mà chỉ chú ý đến Brahma, và
trở thành thầy riêng của Brahma. Suta tiên đoán đại nạn sẽ xảy đến với Brahma
trong tương lai, nên trước khi chia tay, Suta dặn dò:
-
Sau khi chứng tỏ tài học của mình trước phụ vương, các vị sẽ ổn định đời sống
của riêng mình. Khi ổn định xong, xin nhớ tuân lời giáo huấn của ta.
-
Thưa Tôn sư, đó là lời giáo huấn gì?
-
Vào những ngày trăng non và trăng tròn phải giữ giới Bồ-tát và không được sát
sinh.
Các
vương tử đều đồng ý tuân lời dặn ấy.
Vua
Brahma chưa bao giờ ăn cơm mà không có thịt, vì thế để giữ ngày trai giới, quần
hầu thường lấy thịt cất riêng một nơi. Do người đầu bếp bất cẩn, bầy chó của
hoàng cung ăn hết. Sau đó, người đầu bếp không thể tìm ra thịt, nên phải lấy đỡ
miếng thịt đùi của một người vừa chết, nướng thật chín và dọn lên làm thức ăn.
Khi
lát thịt vừa chạm vào đầu lưỡi, toàn thân của Brahma rúng động. Đó là do tiền
kiếp, vua đã từng là quỉ Dạ-xoa ăn thịt người. Ăn thịt người đã thành tập
nghiệp ẩn sâu trong tiềm thức của Brahma. Giờ đủ duyên, tập ấy bùng phát. Vua
quên hết những gì đã được học, mê mãi theo món thịt người, quên luôn lời dặn
của Suta là không được sát sinh.
Vua
ra lệnh cho đầu bếp bỏ hết tất cả các loại thịt khác, chỉ làm một món thịt
người nướng. Ban đầu, là thịt của hàng tù nhân. Sau thịt tù nhân không đủ cung
cấp, vua và đầu bếp lập kế tìm đến thịt dân lành. Việc xảy ra liên tục, khiến
dân chúng rúng động và cầu cứu lên tướng quân Kalahatthi. Sau nhiều tuần theo
dõi, đầu bếp của vua bị bắt.
Tướng
quân biết việc vua ăn thịt người, ông ra sức khuyên nhủ nhưng vua nhất quyết
không nghe. Vua bị tước vương quyền và đày ra sống ở bìa rừng. Theo sở nguyện,
Brahma được giữ một thanh kiếm bên mình và ra đi cùng tên đầu bếp.
Sống
trong rừng, ông tiếp tục gây nghiệp để tìm thức ăn cho mình. Khi người trong
rừng hết, ông giết tên đầu bếp…
Câu
chuyện còn dài nhưng chỉ ghi lại phần này vì nó liên quan đến những gì cần nói.
Tướng quân Kalahatthi là tiền thân của ngài Xá Lợi Phất. Sutasoma là tiền thân
của đức Phật. Sau này Sutasoma chính là người cảm hóa vua Brahma.
TẬP, LÀ THỨ ĐÁNG SỢ
Brahma
trở thành như thế là do đã huân tập thói quen ăn thịt người khi còn làm quỉ Dạ
xoa.
Tập,
là sự tích tụ. Một chi phần của Tứ diệu đế. Thứ gì tích tụ nhiều sẽ có lực dẫn
mình lao theo nó như con thiêu thân lao vào ánh đèn dù chỉ để chết. Nghiện hay thói
quen là một dạng của tập. Nó là căn nguyên khiến chúng sinh rơi vào đường khổ.
Cũng khiến chúng sinh không được giải thoát và niết bàn.
Không
chỉ có vua Brahma bị cái tập ăn thịt dẫn phát mà cả thánh Anan, do nhiều đời
làm vợ chồng với Ma-đăng-già, nên khi khất thực ngang qua nhà nàng, đã bị Ma-đăng-già dùng thần chú Ta-tì-ca-la bắt vào phòng riêng, kề cận, vuốt ve, khiến Anan sắp mất giới thể". [2]
Trong
đời này, ta đã tích tụ rất nhiều thứ như thế. Tình cảm, ái dục, ngủ nghỉ, ăn
uống, tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến… không thể kể xiết. Cũng không hề biết
đó là cái nhân của sự trói buộc và khổ đau.
Thói
quen hay sự tích tụ, bản chất của nó là trói buộc. Khi nhận thức trói buộc
không phải là một trạng thái hạnh phúc, ta muốn giải thoát. Vì thói quen là
nhân đưa đến trói buộc nên muốn giải thoát, chỉ có cách là phải phá bỏ thói
quen. Vì thế dừng bỏ được những thói quen của mình, chính là tu. Đó là cách tu
thẳng tắt nhất trong các cách tu. Vì thẳng tắt quá nên khó làm. Thành phải mượn
sự huân tập các thiện nghiệp như tụng kinh, niệm Phật, tọa thiền v.v… để có lực
dừng đi các tập nghiệp xấu. Những cái tập mà hiện giờ, có thể ta thấy bình
thường, nhưng về lâu về dài, có khi trở thành cái họa không hay cho mình.
Có
lẽ, đó là lý do vì sao đối với phật tử tại gia mới đến thiền viện tu học, Hòa
thượng Trúc Lâm nói “Không ăn chay vẫn tu được” mà tất cả chư tăng của Hòa
thượng không ai được ăn mặn. Các bậc Tôn túc cũng thường ăn chay và khuyên
người tu tập nên chay lạt dần. Các bộ kinh giảng cho hàng đại Bồ-tát như kinh
Lăng Già cũng nhắc đến việc ăn chay. Vì ngoài việc giúp hiển phát lòng từ đối
với chúng sinh và hạn chế dần việc tham đắm mùi vị, đó còn là cách giúp chấm
dứt cái tập ăn mặn.
Có
người cho rằng ăn chay vẫn giết hại sinh vật không khác ăn mặn, vì trong rau có
các vi sinh vật mà mắt mình không thấy. Nếu nói đến việc đó thì ở đâu cũng có,
không phải chỉ trong rau mới có. Trong nước cũng có, trong bò, trong heo còn
nhiều hơn nữa. Nếu mang lên bàn cân để coi nặng nhẹ thì bò, chó, heo và lũ vi
sinh vật theo chúng vẫn nặng ký hơn nhiều so với một mớ rau cải.
Nói
đến mặt tham đắm mùi vị, thức ăn chay dù biến hóa thế nào, cũng không thể có
khẩu vị và sự bày biện như thức ăn mặn. Có giả thịt giả cá thì ăn vào nó vẫn
bột bột, không thể như cá với thịt, dù mùi vị có tương tợ.
Cho
nên ăn chay vì thích hay vì để trị bệnh thì không nói, còn đã có ý thức ăn chay
để thấy mình không phải là cái duyên (dù chỉ là gián tiếp) khiến chúng sinh bị
sát hại thì đó là một bước ngoặc khá tốt đối với người tu. Song chay mặn gì thì
“tập” vẫn là thứ cần phải thanh lọc cho sạch nếu muốn giải thoát.
Sợ
nhất là không thấy rõ tâm mình. Bị cái nghiệp ăn mặn trói buộc mà cứ nghĩ là đã
tự tại với việc ăn uống. Có người chay được vài tháng, bỗng lăn ra ăn mặn,
không vì lợi ích cho ai, chỉ vì nghĩ mình đã tự tại với việc chay mặn. Không
biết là đang bị thằng vọng tưởng nhà mình nó gạt, mà gốc là cái tập ăn mặn ẩn
sâu trong tiềm thức của mình.
Thôi
thì chay mặn gì cũng được miễn là nhìn cho tường tận về con người của mình là
tốt. Nên nhìn các pháp đúng như chính nó. Làm được hay không để đó tính sau.
Không nên để cái tưởng của mình thần thánh hóa mình lên rồi đi từ nhầm lẫn này
sang nhầm lẫn khác. Uổng!
VẬY TU LÀ PHẢI ĂN CHAY?
Đây
là đề tài khá nóng bỏng đối với giới trên mạng. Người thì cho “Tu hành là phải
ăn chay”. Người lại nói “Ăn mặn không hề hấn gì”. Cãi qua cãi lại bất phân
thắng bại. Làm sao phân được thắng bại khi lỗi không nằm ở việc chay mặn mà ở
chữ “tập”?
Thái
hậu, một lần mở tiệc thịnh soạn. Tuệ Trung Thượng Sĩ dự tiệc, gặp cá, gặp thịt
cứ ăn. Thái hậu thấy lạ hỏi:
-
Anh tu thiền mà ăn cá ăn thịt thì thành Phật sao được?
Thượng sĩ cười:
-
Phật là Phật, anh là anh. Anh chả cần làm Phật. Phật chả cần làm anh. Thái hậu
không nghe người xưa nói: “Văn Thù là Văn Thù. Giải thoát là giải thoát” sao?[3]
Ăn
chay không phải là cái nhân thành Phật, dù đó là một trợ duyên khá tốt cho việc
tu hành. Muốn thành Phật thì điều kiện tiên quyết phải là định tuệ bình đẳng
rồi mới nói tiếp việc khác. Nó liên quan nhiều đến việc thanh lọc tâm, không
phải chỉ một việc ăn chay mà thành Phật được. Nếu chỉ ăn chay mà thành Phật thì
con bò cũng đã thành Phật từ lâu. Nhưng bò là bò mà Phật là Phật. Thành vấn đề
không nằm ở việc chay hay mặn mà là bạn có dính mắc hay bị trói buộc vào đó hay
không.
Hòa
thượng Tinh Vân khi dùng cơm ở hội Phật giáo Nhật Bản đã từng phải ăn mặn, dù “nghe
mùi tanh nồng nặc xông khắp”. Biết “canh mình dùng toàn bột nêm tôm cá”, ngài
vẫn phải dùng. Chỉ vì “Phật pháp dùng từ bi làm nền tảng, lấy phương tiện làm
cửa vào để tu đạo và độ chúng. Sự thanh tịnh nội tâm mới là quan trọng”.[4] Do
muốn tránh cho mọi người sự khó chịu, nên ngài vui vẻ cùng dùng. Trong những
duyên khác, ngài vẫn dùng chay.
Dù
không phải là giới cấm nhưng nếu thiên hạ dọn lên một bữa chay mà mình nuốt
không trôi, hoặc ăn vài tháng đã thấy thèm mặn thì phải hiểu cái tập ăn mặn
đang đóng khắp châu thân của mình. Ăn chay mà người sinh bệnh hoặc trở nên yếu
cũng là một dạng đang bị cái tập mặn trói buộc.
Cho
nên, vấn đề không nằm ở bữa chay hay bữa mặn mà ở cái tập chay mặn ta đã thanh
lọc tới đâu. Nếu thanh lọc sạch thì có thể tùy duyên làm phật sự, không lệ
thuộc vào chay hay mặn. Ăn mặn mà độ được người thì ăn mặn. Ăn chay mà độ được
người thì ăn chay. Tùy duyên mà hành xử không dính gì đến chay mặn. Vì tập
nghiệp đã trừ. Chay hay mặn như thế không làm cản trở con đường thành Phật của
mình. Chỉ thêm trợ duyên cho Bồ-tát đạo.
Hồi
tôi mới tới thiền viện, thường được nghe kể về đại sư TM. Do cái duyên độ sinh
ở bãi biển, vùng toàn dân đánh cá, nên ngài ít khi dùng chay. Người ta mời gì
ngài ăn nấy. Nhưng cuối đời, lại xếp bằng ngồi hóa mà đi. Mới biết, tuy ăn mặn
nhưng ăn mặn không phải là tập của ngài,
chỉ vì vấn đề độ sinh mà ngài dùng mặn. Một dạng Đồng sự trong Tứ nhiếp pháp.
Còn
đã là “tập”, thì dù là chay, đối với chỗ giải thoát thanh tịnh hay cứu cánh
niết bàn, vẫn như mạt vàng rơi vào mắt, dù quí cũng gây trở ngại ít nhiều.
Bởi
còn tập thì “Trí phân biệt” khi ứng vào sự chưa thể không. Trí phân biệt, là
tướng đầu trong lục thô, thuộc chín tướng bất giác nói trong luận Đại Thừa Khởi
Tín. “Tập” chính là thứ khiến cho thân tâm mình thành trở ngại đối với các
pháp, không thể “vô quái ngại cố, vô hữu khủng bố, viễn ly điên đảo mộng tưởng,
cứu cánh niết bàn”.[5]
Tóm
lại, ăn chay hay ăn mặn đều tu được. Ăn chay hay ăn mặn đều giải thoát được.
Đương nhiên phải có điều kiện (duyên) đi kèm không thể nói khơi khơi.
HAI CHỮ TÙY DUYÊN
Trong
một thế giới mà Duyên khởi là thực lý chi phối tất cả thì khi nói “được” hay
“không được”, luôn phải nói kèm với duyên của nó. Không có một giá trị chung
chung cho toàn bộ vấn đề. Giá trị của pháp chỉ có khi pháp đó được nói trong
một duyên nào đó.
Như
ngón áp út chỉ có giá trị ngắn khi so với cái duyên là ngón giữa, có giá trị
dài khi so với ngón út. Không có hai duyên đó thì ngón áp út chỉ là ngón áp út,
không thể nói là ngắn hay dài. Nói ngắn hay dài là phải nói trong duyên. Duyên
nào có giá trị đó. Khi so với ngón giữa mà nói ngón áp út dài thì lỗi.
Chay
mặn trong vấn đề tu hành cũng vậy. Được hay không được, đúng hay sai đều phải
nói trong duyên, mới hiển được giá trị của nó. Không nắm được mặt Duyên khởi
này của pháp mà cứ luận chung chung rồi cãi nhau ì xèo thì muôn đời lục quân,
không thấy đâu là mặt trời.
Tùy vào thân tâm của hành giả
Nói “Ăn mặn vẫn tu được” vì tu là trừ bỏ tham, sân, si. Nếu ngay khi tham sân khởi lên, mình có thể nhận biết được chúng, không để chúng phát khởi thành hành động rồi tạo nghiệp, thì ăn chay hay ăn mặn đều tu được. Bởi nó liên quan đến sự tỉnh giác và lực quán chiếu của tâm không phải là miếng ăn.
Hoặc
như khi dùng cơm, chúng ta có thể quán thức ăn như Phật đã dạy để không dính
mắc, thì chay mặn không thành vấn đề.
Nhưng
giả như việc ăn mặn khiến người bạn khi nào cũng nóng bức, việc điều thân điều
tâm thành khó khăn - Như khi hành thiền, ăn thịt cá vô thấy thân mình nặng
chịt, cứ như nhuốm đầy máu của thiên hạ, tâm luôn bất an. Còn ăn chay thấy thân
nhẹ nhàng,[6]
việc điều thân điều tâm trở nên dễ dàng - thì “ăn mặn không tu được”, ăn chay
trở thành trợ duyên cần thiết cho việc tu hành.
Tùy vào mục đích tu hành
Bạn không tu giải thoát mà chỉ tập trung tu phước thì ăn chay không phải là vấn đề nghiêm trọng.
Kinh
dạy nhiều về bố thí và giữ gìn năm giới cho phật tử tại gia.[7]
Trong đó có giới “không sát sinh” chứ không phải là “không được ăn mặn”. Khá
nhiều người lầm lẫn về chỗ này. Cứ cho không sát sinh là phải ăn chay. Hai việc đó tuy có liên quan với nhau nhưng
chúng không phải là một. Nếu bạn ăn thịt cá mà tự tay bạn giết hay bảo người khác
giết, tức vì mình mà thiên hạ chết thì việc ăn mặn đó đi liền với sát sinh. Còn
nếu ăn mặn mà mua đồ có sẵn ngoài chợ hay đồ đông lạnh trong siêu thị về ăn thì
không phải là sát sinh.
Thứ
gì dính liền với sát sinh thì cái quả mình phải nhận khi đủ duyên là bệnh tật,
tai ương, đoản mạng. Nặng hơn là đọa vào ba đường dữ.[8]
Đang
sung túc hạnh phúc mà bệnh hoạn ngặt nghèo hay mới ba mươi đã lăn ra chết thì
hạnh phúc biến thành bất hạnh. Càng hạnh phúc bất hạnh càng nhiều. Duyên khởi
đối đãi nên như vậy. Thành có khi giảm đi môt chút ngon miệng, một chút bổ khỏe
mà hạnh phúc tạo ra trong hiện đời và tương lai được trọn vẹn hơn.
Ngài
Liêm sứ ở Hồng Châu hỏi Mã Tổ: “Uống rượu ăn thịt là nên hay không nên?”
Mã
Tổ trả lời: “Uống rượu ăn thịt là cái lộc của ông, không uống rượu ăn thịt là
cái phước của ông.[9]
“Không
uống rượu ăn thịt là cái phước của ông”. Câu trả lời bao gồm cả hai mặt nhân
quả. Không uống rượu ăn thịt là một phước báu, cũng là cái nhân tích phước cho
tương lai.
Tôi
có người quen. Bà có cái duyên cúng được cho các vị cao tăng và ăn chay rất
sớm. Nhưng miệng thì hơi phóng túng. Sự thật thường chỉ nói một phần, còn lại
là tự chế sao cho có lợi cho mình. Nói dối coi như có bằng chứng. Đầu xuôi đuôi
lọt. Một phần vì cái lợi của mình. Một phần vì thói quen. Lỡ rồi tới luôn.
Quan
sát mọi việc xảy ra từ những ngày câu chuyện mới bắt đầu (trong tầm nhìn của
tôi) cho đến khi việc nói dối được phá bỏ, tôi chiêm nghiệm được một điều: Ăn
chay cũng có cái phước đỡ được ít nhiều tai họa chứ chẳng phải chơi. Không phải
là thứ quyết định tất cả, nhưng nó là một trợ duyên, như lỗ thủng trong cái
chậu khi chưa thủng.
Nói
dối là nghiệp xấu nhưng thiên hạ thích nói dối vì chưa bị quả báo. Bà cũng vậy,
chỉ mang lại những kết quả tốt đẹp và lợi lộc nên nói rất mạnh. Có những thứ
mình thấy “ai ngu mới tin”, vậy mà vẫn êm xuôi trót lọt. Thiên hạ đổ nước mắt
cũng nhiều. Cho đến khi bà không thích ăn chay nữa. Cái chậu nguyên vừa thủng
một lỗ nhỏ, nước bắt đầu rỉ ra…
Tôi
thấy mọi việc bể lần, không cần ai khai báo. Tai họa cứ dồn tới không kịp trở
tay. Hình như chính bà cũng nhận ra điều đó. Chấm dứt liền việc ăn mặn. Cũng
không còn nghĩ đến việc nói dối sau khi đã nhận khá nhiều cái quả tệ hại từ nó,
đủ để hiểu lý Nhân quả chi phối thế giới này thế nào.
Không
ăn thịt có cái phước của nó. Điều đó có nghĩa ăn chay cũng là một phần của việc
tu hành. Ai muốn thêm phước thì ăn chay. Không thì cứ ăn mặn.
Tùy vào điều kiện xã hội của từng thời
Xưa Đề-bà-đạt-đa trình với Phật chế luật chay trường cho Tăng Ni. Phật không chấp nhận. Có lẽ do nhiều lý do. Một, ăn chay không phải là cái nhân đưa đến giải thoát. Hai, điều kiện Phật pháp lúc đó đang còn sơ khai và ăn uống đặt nặng ở việc khất thực. Đi khất thực thì thí chủ cúng gì nhận nấy. Nếu lấy chay làm trọng thì bất lợi đối với việc độ sinh v.v...
Trong
điều kiện khất thực như thế, dù dùng mặn cũng không phạm vào ba việc mà Như Lai
đã cấm: “Này Jìvaka, Ta nói trong ba
trường hợp, thịt không được thọ dụng là thấy, nghe và nghi vì mình mà giết”.[10]
Ngược
lại, Phật cũng không đặt ra cái lệ là phải luôn cúng mặn cho Tăng chúng mà
không cúng chay, như khá nhiều phật tử hiện nay đang làm. Cứ nghe đến hai chữ
Nam tông là lại bàn nhau cúng mặn. Phật không hề đặt ra cái lệ như thế. Quí
Tăng cũng đâu nói có thịt tui mới ăn.
Trong
kinh Phật dạy: “Vị Tỷ-kheo ấy không nghĩ
"Thật tốt lành thay! Người cư sĩ này (hay con người cư sĩ này) thỉnh ta
dùng các món ăn khất thực thượng vị. Mong rằng người cư sĩ này (hay con người
cư sĩ này) trong tương lai sẽ thỉnh ta dùng các món khất thực thượng vị như
vậy". Tỷ-kheo ấy không nghĩ như vậy. Vị ấy thọ dụng các món ăn khất thực
ấy với tâm không tham trước, không tham đắm, không đam mê, thấy rõ các tai họa,
ý thức rõ rệt sự xuất ly”.[11]
Nếu đã quán tâm như thế trong khi thọ nhận thức ăn thì chay mặn không khác vì
“ý thức rõ rệt sự xuất ly”. Chỉ là tự phật tử mình nghĩ không thông rồi truyền
nhau mà… thành lệ. Lệ lâu thành luật. Nhưng luật hoài coi chừng sinh “tập”. Đó
không phải là một việc tốt đối với người tu giải thoát.
Ngày
nay việc khất thực đa phần chỉ dành cho mấy vị giả danh. Tăng chúng thường qui
tụ và có chỗ nơi nhất định. Điều kiện ăn uống đã khác. Đã có phần tự lo và tự
quyết định. Đã tự quyết định thì cần chú trọng hơn đối với tinh thần Phật đã
dạy “Thấy, nghe và nghi vì mình mà bị giết thì không được ăn”. Dù không thấy,
không nghe cũng không nghi mà làm một bài toán liền thấy nếu không có mình, con
vật vẫn sống cho đến khi người khác đến mua mới bị giết thì cũng không được
dùng, vì đã phạm vào cái gọi là vì mình mà bị giết.
Cho
nên, là phật tử chúng ta cũng cần có trí tuệ đối với việc cúng dường thực phẩm
cho Tăng chúng. Cúng chay thì khỏe rồi. Phước mình, phước người. Còn cúng mặn
thì nhớ cúng sao cho phù hợp với lời Phật dạy là không vì việc cúng dường mà
khiến sinh vật bị giết hại.
Có
một số món gần như không bao giờ được cúng. Vì cúng, liền sa vào giới cấm của
Như Lai. Đó là những món mà khi mình phát tâm mua, chúng mới bị giết, như cá
lóc, cá hồng, nghêu, sò, ốc v.v… Dù không thấy không nghe thì cũng vì cái đơn
đặt hàng của mình, chúng mới lên đĩa.
Kinh
nói: “Này Jivaka, người nào vì Như Lai,
hay vì đệ tử Như Lai mà giết hại sinh vật, người ấy chất chứa nhiều phi công
đức do năm nguyên nhân...”.[12]Có
thể việc mình làm không vướng tới năm nguyên nhân, nhưng một hay hai cũng mệt
rồi. Cúng dường Tăng chúng là để cầu phước mà lại vướng vào cái phi công đức
thì lợi không bằng hại. Thành muốn việc cúng dường được phước báu tốt nhất,
phật tử mình cũng cần coi xem nên cúng cái gì và không nên cúng cái gì để được
lợi người lợi mình mà không phụ ân đức Phật.
CUỐI CÙNG LÀ …
Dù
chay hay mặn thì đối với người tu hành là ăn để mà sống không phải sống để mà
ăn, ăn để mà tu, không phải tu để mà ăn. Như Phật nói: “Vì cầu pháp mà theo Phật tu hành, không phải vì cầu ẩm thực”.[13]
Ăn
để sống thì ăn cái gì cũng được, miễn không bệnh, không hoạn, no bụng là vui. Sống
mà không phải lệ thuộc vào việc ăn uống nhiều quá là một cái sướng trong đời.
Ăn
để mà tu thì dù ngon dù dỡ, dù chay dù mặn đều phải y những gì đức Phật đã dạy,
mới không bị cái tập ăn uống trói buộc.
Không
cần phải thức ăn cao sang, chỉ một hủ cà pháo ngâm tương, nếu không ý thức sự
nguy hiểm của “tập”, thì không có nó, có khi chẳng ăn cơm được. Dính mắc như
vậy, gặp cận tử nghiệp mà đủ duyên nữa thì thành con dòi bám đó như chơi. Thành
là người tu hành, mình nên ý thức ít
nhiều về cái tập chay mặn này. Thứ gì có nguy cơ thành “tập” thì gắng mà dừng.
Thứ gì đã thành “tập” rồi thì gắng mà bỏ từ từ.
Tổ
Trúc Lâm nói: “Ở đời vui đạo hãy tùy duyên/Đói đến thì ăn mệt ngủ khì”. Không
dính mắc thì đói mới ăn liền được. Không thì phải đúng cái món mình thích mới
chịu ăn. Khổ hiện tại. Tương lai chắc cũng chẳng vui.
[1] Tiểu Bộ Kinh tập
IX – Đại Sư Sutasoma (chuyện tiền thân của đức Phật).
[2] Kinh Thủ Lăng
Nghiêm Trực Chỉ – Thiền sư Hàm Thị trực giải. Dịch giả Thích Phước Hảo.
[4] Nghĩa Tình Trân
Quí – HT Tinh Vân. NS Hạnh Đoan biên dịch.
[5] Bát Nhã Tâm
Kinh.
[6] Ăn theo kiểu
bình dị.
[7] Được nói nhiều
trong các kinh thuộc hệ A-hàm.
[9] Giai Thoại Thiền
– Viên Đức siêu tầm – Nhà xuất bản Thuận Hóa.
[10] Kinh Trung Bộ - Phẩm
55 Jìvaka.
[11] Kinh
Trung Bộ - Phẩm 55 Jìvaka: “Cái gọi là tham, là sân, là si, do đó sân hận khởi
lên, tham ấy, sân ấy, si ấy được Như Lại đoạn trừ, chặt cho đến tận gốc, làm
cho như thân cây tala, khiến không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong
tương lai”.
[12] Kinh Trung Bộ -
phẩm 55 Jìvaka – HT Thích Minh Châu dịch.
[13] Kinh Trung A Hàm
– Phầm Cầu Pháp – Thích Tuệ Sĩ việt dịch và hiệu chú.