Mỗi
lần lên rẫy về, tôi thường thả chân ngồi trên tảng đá này nghỉ mệt và hưởng cái
thú mà ở thành thị không có. Đứng ở ngọn tháp nào để có thể nhìn thấy những nóc
chùa đỏ lẫn trong lá chuối xanh và những đám thanh long xanh rì thẳng tắp? Ngồi
ở đâu để có thể thấy những hàng đường đất ngoằn ngèo, lộ rõ trên nền trời xanh,
mây trắng lững lờ trôi?
Mơ
ước của tuổi thơ không có chuối xanh và rừng rậm, chỉ có danh vọng tiền tài và
những chốn cao sang. Một cuộc sống sung túc với một sự nghiệp vẻ vang là mộng
mơ của phần lớn người đời. Ít ai nghĩ đến cuộc sống bình yên nơi thôn dã. Xa
vời hơn, với chuyện quay về an trú tự tâm thanh tịnh của chính mình. Nói “Tức
tâm tức Phật” có người ngơ ngác hoài nghi, không biết phát ngôn có loạn? Cho
nên, phố thị phồn hòa dù mệt mỏi, ngán ngẫm rồi, cũng chỉ biết tìm chốn chùa
chiền hay rừng sâu nước đọng nương thân. Hai bữa cơm canh đạm bạc qua ngày.
Tránh sự hơn thua ồn náo chốn chợ đời. Đào luống rau, xới luống hoa, nhìn cây
xanh lớn từng ngày, cảm nhận một chút an bình nơi thôn dã. Cây rừng không biết
nói nên không có nặng hay nhẹ. Chim hót không đụng đến cái tôi nên không thấy
vơi hay đầy. Bình yên nhờ chốn thanh bình. Không nói đến chuyện chăn trâu,
không biết có trâu để chăn, không biết thằng chăn là gì. Vậy nhưng không phải
ai cũng làm được. Bởi tâm chưa nguôi để thấy cảnh tịnh không buồn. Không thể
rời duyên gia đình mà qui chốn Tổ hưởng sự bình yên.
Kẻ
được nhiều phước duyên, nghe nói nhiều đến trâu. Du hí đến đâu cũng thấy thằng
chăn ngộ nghĩnh lơ lững trên tường mười bức. Cũng tin trâu đen nhà mình đang
quậy lúa mạ của người. Nhập cuộc chăn thử chỉ thấy một nùi, không biết cái gì là trâu,
cái gì là chăn… Không biết bắt đầu từ đâu. Quay ra hướng vào là việc thế nào?
Một câu niệm Phật ngày xưa đâu có phân trâu, phân chăn. Chỉ cần niệm Phật. Chỉ
cần nghe tiếng niệm Phật, không gì ngăn ngại, không gì cần phải quán xét, chỉ
cần thay vì nói chuyện thì ta niệm Phật. Cứ thế mà niệm, ăn uống ngủ nghỉ, đi
tiêu, đi tiểu, một câu niệm Phật thầm thầm không dứt. Khối việc nhiệm mầu cũng
đã xảy ra. Đâu cần phải chăn. Đâu cần biết trâu. Quay ra rồi lại quay vào, trâu
nằm chỗ nào? Sao thấy mệt quá! Thành ra được duyên nghe trâu nghe chăn mà tìm
ra trâu để chăn không phải dễ làm. Mới hay
Mênh
mang vạch cỏ bỏ công tầm
Non nước đường thênh xa dấu tăm
Tận lực lao tâm tìm chẳng thấy
Chỉ nghe gió quyện tiếng ve ngâm[1].
Sờ
sờ trước mắt mà không nhận ra thì đâu khác gì cách biển ngăn sông, núi non hiểm
trở, đường thêm vun vút nào thấy chốn về.
Chuối
mùa này xanh rợp. Buồng ra cũng nhiều. Nhiều bao nhiêu thì mỗi cây chỉ cho một
buồng. Hạ buồng xuống thì phải chặt cây. Nó tạo cái thế không cho người ta nắm
giữ. Giữ lại không lợi. Giá mình thấy được cái thế vô thường nó tạo cho mình
lợi ích thế nào để không chấp thủ vạn pháp thì đâu đến nỗi bương chải dành
giựt. Nhưng thâm sâu quá chẳng thấy được gì. Chỉ muốn nắm bắt mọi thứ.
Cây
mắc mèo vươn mình bò lên thân chuối, chỉ cần một vài trận mưa, nó đã lên đến
đầu đọt. Quắp được đọt rồi bẻ quặc, trùm hết. Vươn mình nhởn nhơ trước nắng.
Quên mất cái thân tầm gởi nương tựa của mình nhờ đâu mới vươn lên được. Cái
chốn mình nghĩ bình yên, té ra cũng chẳng bình yên. Con giun oằn mình tránh đàn
kiến nhỏ. Châu chấu xanh um chỉ còn cái đầu, râu vẫn ngo ngoe. Trong cõi Dục
này, dục là động lực, tranh dành cấu xé lẫn nhau không nguôi. Chỗ nào mới thật
bình yên khi tâm chưa hết dục tình?
Yunghahn
kể rằng, ông thấy ở Java, một cánh đồng dài đến vô tận chất đầy xương trắng.
Ông tưởng là bãi chiến trường. Nhưng không, là xương các con rùa lớn vào đó đẻ
trứng. Chúng bị đàn chó lật lên ăn thịt. Rồi đàn chó hoang bị hổ ăn thịt. Cứ
vậy nhân quả xoay vần thành đống xương khô. Còn kiến Úc châu, nếu bị cắt đôi
thì đuôi và đầu trở thành đối thủ. Cái đầu dùng răng giữ lấy cái đuôi. Cái đuôi
tự vệ bằng cách châm chích cái đầu. Cuộc chiến kéo dài đến khi cả hai cùng chết
hay bị con khác lôi đi.[2]
Khối chuyện để nói trong cõi Dục này.
Đọt
chuối bị quắp, châu chấu bị xơi… chỉ có chừng đó, vậy mà dẫn mình đi ngược quá
khứ, đến tận Châu Úc một thời xa tít mù khơi. Thằng chăn không tỉnh, trâu ta tự
do bay nhảy không tự quay đầu bao giờ. Nó dong ruỗi mãi đến khi ta ngủ, vẫn còn
rục rịch trong mơ.
Suy
nghĩ liên tục trong đầu. Nhớ thương ray rứt trong tâm. Chợt vui. Chợt buồn.
Hoài niệm quá khứ. Phát họa tương lai. Khi thấy trống vắng. Lúc lại mong cầu...
Bạn có như thế? Hình dạng trâu đen đó bạn. Một con trâu đen rất khó khống chế.
Một khi bạn nhận ra được những gì hiện diện trong tâm, bạn đã tìm thấy con trâu
nhà mình. Dù thiện hay ác nó đều là trâu. Còn “cái nhận ra” chính là thằng
chăn.
Chỉ
cần nhận ra những gì hiện diện trong đầu (tâm), lúc ấy con trâu thằng chăn đều
đủ. Không cần quay về tìm kiếm thằng chăn. Tìm được, thằng chăn liền thành con
trâu, tìm chi! Cho nên chỉ nói tìm trâu, không nói phải tìm thằng chăn. Chỉ cần
thấy trâu, ngay đó thằng chăn đã có. Bởi không thằng chăn thì ai thấy trâu bây
giờ? Thành ra chỉ cần thấy trâu là đủ cả hai. Duyên khởi, năng - sở đâu có lìa
nhau[3].
Thấy
được và nắm cho được để chăn, không phải là một.
Thấy
được không dễ mà chăn cho được càng khó.
Khó
mà không chăn, thênh thang sáu cõi chưa biết sẽ vào cõi nào. Cái khổ Phần đoạn,
Biến dịch vẫn cứ triền miên. Thành khó bao nhiêu cũng phải “ Kiệt hết thần thông bắt được y”.[4]
Bắt rồi, “Tâm hùng sức mạnh khó trừ liền”.[5]
Nói lên cái khó thuở đầu dụng công. Cực nhọc vô cùng. Nhận ra, thoáng chút rồi
mất. Bởi vì niệm này nối tiếp niệm kia không dứt. Cái lực tương tục lúc ấy rất
mạnh. Đại Thừa Khởi Tín gọi nó là “Thức tương tục”. Bắt được thì nó tạm ngưng.
Ngưng rồi nối tiếp không ngừng. “Có khi
vừa đến cao nguyên đó / Lúc lại chui vào chốn khói mây”[6].
Thấy đó mà giữ không được. Giữ được lại thấy nhức đầu, phải buông. Từ “không”
hóa “có” là do cái lực hung hãn của nó, thì biết đâu phải là thứ dễ chăn. Tha
thiết tận lực chăn nó, cũng không một sớm một chiều nó chịu thuần cho. Cho nên,
cần tâm trường viễn, cần tâm sống chết…
Có
người bỏ cuộc nửa chừng. Bảo rằng vọng nhiều mệt mỏi, không thể làm chủ, nó
không chịu yên. Không biết được rằng, nhận thấy vọng nhiều là chăn nhà mình đã
tỉnh giác hơn. Thành đến được đó, xin đừng bỏ cuộc, cần phải dốc sức tiến nữa.
Hoàng Bá từng nói:
Học đạo do như
thủ cấm thành
Khẩn bả thành đầu chiến nhất trường
Bất thọ nhất phiên hàn triệt cốt
Chẩm đắc mai hoa phác tị hương
Học đạo giống như việc
giữ thành. Phải dốc hết lực mà đánh một lần. Không phải là việc có thể tà tà,
thưởng ngoạn xem hoa. Hai câu đầu được dịch rất hay (dù có hơi thoát trên mặt
văn từ): “Vượt khỏi trần lao việc chẳng thường/ Đầu dây nắm chặt giữ lập
trường”[7]. Việc đời, nếu không lập
chí dồn lực còn khó thành công, huống là tu đạo? Dồn lực, thằng chăn mới thành
lão luyện, trâu đen mới hết lực hung.
Chăn
trâu, không gì khác hơn là làm cho trâu mất đi lực hung của nó. Nghĩa là “khiến
chân có lực mà vọng không lực”[8].
“Chân”, chỉ cho cái
dụng của chân thể. Nó thuộc về
trí Thủy giác mà luận Đại Thừa Khởi Tín đã nói.
Vọng y chân[9] mà khởi, nhưng vọng không phải là chân. Nói theo luận Trung Quán là “Không một
cũng không khác”. Cho nên, tuy ngay vọng có chân mà vọng không phải là chân.
Lập trâu, là muốn chỉ riêng phần vọng tâm, không phải chỉ chung cho cả chân lẫn
vọng. Nếu chung cả chân lẫn vọng thì khi trâu mất, chân cũng mất theo, nhưng
chân không mất. Luận Đại Thừa Khởi Tín nói: “Nói diệt, chỉ là tướng của tâm diệt, không phải thể của tâm diệt”.
Thành biết, nêu trâu là chỉ cho phần vọng tướng do mê mà có. Thằng chăn, biểu
trưng cho phần dụng của chân thể. Nói chân thể, cũng do đối với tâm vọng động
mà nói, còn thể tánh ấy không chân cũng không vọng. Khi trâu mất, dụng thu, thể
tánh bất sinh bất diệt hiển bày. Đó là lúc trí thủy giác hợp nhất với bản giác.
Đại sư Hám Sơn nói: “Nay mới dụng tâm, cần đề khởi nhất niệm này làm chủ. Do lực quán chiếu của
nhất niệm này, chỉ cần thấy được chỗ vọng tưởng khởi, nhất niệm lập tức chiếu
phá, không để vọng tưởng tương tục. Đây là chỗ ngài Vĩnh Gia nói “đoạn tâm
tương tục”. Chủ yếu của việc tham thiền là không để mất nhất niệm này. Song khi
vọng tưởng đã diệt, nhất niệm này cũng phải bỏ. Vì nhất niệm này chỉ do trừ tưởng
mà lập” [10]. Một đoạn ngắn đó, diễn bày đầy đủ quá trình chăn trâu, từ khi mới chăn,
đến khi trâu thuần rồi mất. Trâu mất, người chăn cũng buông. Buông được, liền
có tin tức. Là chỗ mà kinh luận nói “Trở về nguồn cội”. Là chỗ mà chư Phật và
chúng sinh đồng y. Mê thì bất giác thành chúng sinh. Ngộ thì thành Phật và Bồ-tát.
Quá trình trên, có thể diễn ra trong một đời,
cũng có thể kéo dài vài chục kiếp v.v… nhưng có khi chỉ diễn ra trong một thời
tọa thiền. Trong thời tọa thiền, nếu quá trình ấy xảy ra thì ta có tin tức.
Song để có được điều đó thì việc dụng công hằng ngày phải được miên mật. Làm việc,
ăn cơm, uống nước, đi tiêu, đi tiểu, và ngay cả trong giấc ngủ, kẻ chăn không rời
con trâu.
Có người thắc mắc: “ Đã biết vọng tưởng là vọng,
vì sao phải trừ?”.
Việc này đã được đại sư Hám Sơn giải thích
trong luận Đại Thừa Khởi Tín Trực Giải: “Tất cả chúng sinh mê chân tâm mình, một
bề chỉ nương vọng tâm làm việc. Nên nay tu tập, lấy việc trừ tưởng làm đầu. Vọng
tưởng không tánh vì sao phải trừ? Tất cả các niệm thuộc tưởng đều trừ”. Phải trừ,
vì do lâu nay chúng sinh tưởng vọng là chân, tập lâu thành tánh mất rồi[11].
Nên tuy là vọng mà nó có lực sai sử, dẫn ta luân hồi sinh tử triền miên. Giờ
tuy có tỉnh, nhưng lực tương tục của nó vẫn còn. Dạy người dụng công trừ niệm chính là phá đi cái lực tương tục
quá mạnh của nó, đến khi nó hiện nguyên hình là vọng. Vọng đúng là vọng thì
không còn lực trói buộc chúng ta. Như trâu đã thuần, bảo đứng thì đứng, bảo nằm
thì nằm. Như chim bay trong hư không, không để dấu vết. Được vậy thì không cần
trừ. Cũng không nói trừ hay không trừ. Nếu chưa được vậy thì theo thứ lớp mà
chăn con trâu nhà mình. Trâu thuần, thế giới mình an. Tổ Trúc Lâm có kệ:
Tịnh độ là lòng trong sạch
Chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương
Di Đà là tánh sáng soi
Mựa phải nhọc tìm về cực lạc.[12]
Tìm đâu thật chốn bình an mà không quay về
chăn trâu nhà mình?
[2]Schopenhauer -
Câu chuyện Triết học – Will Durant – Trí Hải và Bửu Đích dịch.
[4] Thập mục ngưu
đồ, tranh (4): Được trâu.
[5] Thập mục ngưu
đồ, tranh (4): Được trâu.
[6] Thập mục ngưu đồ, tranh (4): Được trâu.
[9] Chân nói đây, chỉ cho thể tánh bất sinh bất diệt. Cần
hiểu chân vọng theo tinh thần Duyên khởi. Có thô có tế.
[10] Đại Thừa Khởi Tín Luận – Đại sư Hám Sơn trực giải.
[12] Cư Trần Lạc Đạo Phú – Thiền Sư Việt Nam – HT Thích Thanh
Từ.