Như thường
lệ, Phật ở nơi vườn Cấp-cô-độc trong thành Xá-vệ, đang thuyết pháp cho chư vị
Tì- kheo. Hôm đó ngài thuyết về công đức hồi hướng và pháp Bát quan trai.
Bát quan trai
Bát
quan trai, còn gọi là pháp Bát quan trai Hiền Thánh, là tám việc mà một người học
Phật đạo, hoặc học Bích-chi Phật đạo, hoặc học A-la-hán đạo, hoặc học chánh
pháp nên thực hành trong ba ngày mùng 8, 14 và 15 âm lịch. Đó là:
1/
Không sát sinh.
2/
Không trộm cắp.
3/
Không tà dâm.
4/
Không vọng ngữ.
5/
Không uống rượu.
6/
Không ăn phi thời.
7/
Không nằm giường cao rộng.
8/
Không hát xướng và không thoa hương hoa lên thân thể.
Năm
pháp đầu là ngũ giới mà một Phật tử tại gia phải gìn giữ trong đời sống của
mình. Ba giới sau giúp Phật tử ngăn dần tham dục. Chỉ tập trung thực hành trong
ba ngày thì việc giữ giới được hoàn chỉnh hơn. Cũng là cái nhân để Bát quan
trai được thực hành đều đặn trong đời sống của người Phật tử.
Thệ nguyện hồi hướng
Phật dạy
Bát quan trai xong, lại dạy thính chúng phát nguyện: “Nay con do pháp Bát quan trai này, không rơi vào ba đường dữ, không rơi
vào Bát nạn, không ở biên địa, không rơi vào chỗ hung ác, không theo ác tri thức,
thờ phụng cha mẹ, không tu tập tà kiến, sinh vào trung tâm quốc gia nghe pháp
lành này. Phân biệt suy nghĩ thành tựu từng pháp. Đem công đức giữ gìn trai
pháp này nhiếp thủ điều lành cho tất cả chúng sinh. Đem công đức này bố thí cho
người, khiến cho tất cả cùng thành tựu đạo quả Bồ-đề vô thượng. Cũng đem phước
báu thệ nguyện này bố thí cho hàng Tam thừa, khiến không thối chuyển nửa chừng”.[1]
Phát
nguyện, là dùng công đức có được, hồi hướng để có được quả báo tốt đẹp ở tương
lai. Như khi nghe pháp hay tọa thiền xong, chúng ta thường đọc bài kệ: “Nguyện đem công đức này / Hồi hướng khắp tất
cả / Đệ tử và chúng sinh / Đều trọn thành Phật đạo”. Tất cả đều được hồi hướng
cho con đường Phật đạo. Lời hồi hướng đó mang tính tổng quát, trực chỉ một việc
thành tựu Phật quả. Lời hồi hướng Phật dạy đây mang tính chi tiết để chúng ta
có thể rõ biết từng sự.
Việc đầu
tiên cần hồi hướng là không rơi vào ba đường dữ. Đó là Địa ngục, Ngạ quỉ và Súc
sinh. Ở các cõi đó, điều kiện để gặp chánh pháp, nghe chánh pháp và thực hành
chánh pháp khó khăn mà điều kiện qui ngã và hành các ác nghiệp thì dễ (súc
sinh). Như khi Như Lai còn tại thế, đang diễn nói giáo pháp rộng rãi thì các
chúng sinh ở ba cõi đó không nghe, không thấy. Đó là ba nạn đầu tiên trong Bát
nạn. Gọi là nạn, vì không thấy được Phật, không nghe được chánh pháp. Vì thế
khi chưa phải là hàng Đại Bồ-tát bất thối chuyển, có thể thấy “Thân con không
khác với huyễn hóa”[2], vào
chốn khổ mà không bị khổ làm ngại tâm, thì việc đầu tiên cần phải làm khi tạo
được công đức, là hồi hướng công đức đó để thoát khỏi ba dường dữ. Có vậy mới
có thể đời đời gặp được chánh pháp mà tránh ác làm thiện và giữ gìn tâm ý thanh
tịnh.
Nạn thứ
tư trong Bát nạn, là khi Như Lai còn tại thế, khi giáo pháp của Như Lai được giảng
nói rộng rãi thì chúng sinh ở cõi Trường Thọ không nghe, không thấy. Trường Thọ,
là chỉ cho cõi Trời vô tưởng thuộc Sắc giới. Ngoại đạo tu hành đa phần đều sinh
vào chỗ này. Chướng với việc thấy Phật nghe pháp nên nói là nạn[3]. Vì thế,
cần phải tránh xa cõi trời này.
Nạn thứ
năm, là khi Như Lai còn tại thế, khi giáo pháp của Như Lai được diễn nói rộng
rãi thì người ở biên địa không nghe thấy, lại hay tạo các ác nghiệp và phỉ báng
Hiền Thánh.
Biên địa,
là chỉ cho chỗ mà những tập tục mê tín còn mạnh, ánh sáng của chánh pháp không
có điều kiện soi tới. Đó là những khu vực xa xôi, nơi mà nền văn hóa, điều kiện
đi lại cũng như truyền thông chưa được phát triển.
Trung
tâm quốc gia, là chỉ cho nơi chánh pháp được lưu bố rộng rãi. Đa phần đều có thể
tiếp cận với chánh pháp.
Trong
bài tựa của ngài Tăng Duệ viết cho Trung luận, có đoạn: “May thay! Khu vực này
của Trung quốc, bỗng dời được Linh Thứu sang trấn giữ. Biên tình cách trở mới
được ngập sáng ơn thừa”[4]. Biên
tình cách trở, chỉ cho khu vực ở biên địa. Cũng chỉ cho thức tình phân biệt của
chúng sinh. Nguyện không sinh vào biên địa là nguyện thô. Nguyện không để tâm
rơi vào nhị biên phân biệt, là nguyện tế. Thô, là nguyện sinh vào Trung tâm của
quốc gia. Tế, là nguyện đi trên con đường Trung đạo, lìa nhị biên phân biệt. Có
vậy thì quả Phật mới có ngày thành tựu.
Nạn thứ
sáu, là khi Như Lai còn tại thế, giáo pháp của Như Lai được diễn nói rộng rãi
thì người tuy sống được ở trung tâm quốc gia, nhưng sáu căn không đầy đủ, không
phân biệt được pháp thiện ác. Tam Tạng
Pháp Số ghi: “Chư vị này tuy sinh ở trung quốc mà nghiệp chướng sâu nặng.
Đui, điếc, câm, ngọng… các căn không đủ, gặp Phật ra đời mà chẳng thể thấy Phật,
tuy được thuyết pháp mà cũng chẳng thể nghe”. Đui điếc, câm, ngọng… biểu trưng
cho cái gọi là nghiệp chướng sâu nặng. Chính cái nghiêp chướng sâu nặng đó khiến
không thấy được Phật, không nghe được pháp, nên nói đui, điếc, câm, ngọng...
Nạn thứ
bảy, là khi giáo pháp của Như Lai được diễn nói rộng rãi thì người tuy sống được
ở trung tâm, sáu căn tuy đầy đủ, mà tâm lại tà kiến. Không tin có nhân quả.
Không tin có đời này đời sau. Không tin Sa môn hay Bà la môn có thể chứng quả
A-la-hán. Trường hợp này hiện nay không phải khó gặp. Người tuy có trình độ văn
hóa cao, điều kiện vật chất dư giả, phương tiện gặp được chánh pháp cũng dễ
dàng, nhưng lại không ý thức rõ về nhân quả. Cũng không ưa thích người tu hành
giữ giới nghiêm túc. Với chánh pháp càng không ưa thích. Coi thường việc giữ
gìn năm giới. Tâm qui ngã và ái dục được coi trọng. Cái quả tương lai được củng
cố bằng những tranh đoạt trong hiện tại. Không ý thức rõ lợi ích của bố thí
v.v…
Việc hiếu
hạnh, có nơi cũng không được coi trọng. Con cái không có tâm thương tưởng, kính
phục, nuôi dưỡng cha mẹ. Trong khi Phật dạy phước đức cung dưỡng cha mẹ ngang bằng
với việc cúng dường Phật. Vì thế ngay với người xuất gia, hiếu dưỡng vẫn được
coi trọng. Không phải tu đạo bậc thánh thì bỏ bê đạo đức thường tình của người
đời. Phật dạy cắt ái ly gia, chẳng qua là để có điều kiện giúp việc hiếu hạnh
được thăng hoa hơn. Không phải tu đạo rồi thì phế bỏ cha mẹ như những ác tri thức
đã dạy người.
Cho
nên, nguyện thờ phụng cha mẹ, không theo ác tri thức, không sinh vào chỗ hung
ác, là những nơi tệ nạn dễ có điều kiện phát sinh, là để tránh cái nạn thứ bảy
này.
Nạn thứ
tám là, chúng sinh tuy sống ở trung tâm, sáu căn đầy đủ, thông minh tài cao, biết
có nhân quả, tin có đời trước đời sau, cũng tin có Sa môn, Bà-la-môn tu hành chứng
quả A-la-hán, có khả năng thọ nhận pháp, tu hành chánh kiến, nghe pháp liền hiểu,
nhưng lại sinh vào thời không có Phật, giáo pháp cũng không được diễn nói, nên
không đủ cơ duyên tu phạm hạnh. Tức, nhân trong thì có mà duyên ngoài thì
không, nên đại quả khó thành tựu. Luận Đại
Thừa Khởi Tín nói: “Pháp của chư Phật có nhân có duyên. Nhân duyên đầy đủ
thì pháp mới được thành… Chúng sinh cũng vậy, tuy có lực huân tập của chánh
nhân mà không gặp được chư Phật, chư Bồ-tát và các Thiện tri thức lấy đó làm duyên,
để có thể tự đoạn phiền não và nhập Niết-bàn thì không có việc ấy…”. Thành dù
là người có khả năng nhận lãnh giáo pháp tu hành chăng nữa, nhưng nếu không gặp
được chư Thiện tri thức hay giáo pháp mà Như Lai đã nói thì không thể thành tựu
quả vị Phật. Cho nên cần phải hồi hướng công đức có được để tránh cái nạn thứ
tám này.
“Đem công đức giữ gìn trai pháp này nhiếp thủ
điều lành cho tất cả chúng sinh”, là
dùng công đức đó nguyện hồi hướng cho tất cả chúng sinh tránh ác làm lành, thực
hành trai pháp v.v… để có được quả báo tốt đẹp.
Tam thừa,
là chỉ cho Nhị thừa và hàng Bồ-tát chưa đăng địa (Địa tiền). Các hạng vị này
chưa chứng được Phật tánh nên chưa được gọi là Bồ-tát bất thối như hàng đăng địa
(Địa thượng), là hàng đã chứng lại được Phật tánh của mình. Đây nói chứng,
không nói tin nhận. Vì chưa phải là hàng bất thối, nên “Đem phước báu thệ nguyện
này bố thí cho hàng Tam thừa” là một cách hồi hướng khiến họ “không thối chuyển
nửa chừng”.
Trong
phần thệ nguyện trên, phần đầu thuộc về tự lợi. Phần sau thuộc về lợi tha.
Vì sao phải phát thệ nguyện?
Sau khi nghe Phật dạy, Tôn
giả Ưu-ba-ly hỏi Phật:
- Bạch Thế Tôn, nếu thiện
nam và tín nữ thực hành Bát quan trai rồi mà không phát thệ nguyện hồi hướng
thì có được công đức lớn chăng?
Phật trả lời:
- Tuy có phước nhưng phước
đó không đủ.
Để giải thích cho việc mình
đã nói, đức Phật kể cho chư Tì-kheo nghe câu chuyện sau:
Thời quá khứ, khi đó có vua
Bảo Nhạc dùng chánh pháp trị dân, thống lãnh cảnh giới Diêm-Phù- đề này. Đó là
thời có đức Phật hiệu là Bảo Tạng Như Lai ra đời.
Nhà vua có người con gái tên
là Mâu-ni, dung mạo đặc biệt thù thắng. Do đời trước cúng dường chư Phật mà được
như vậy.
Lúc đó, Bảo Tạng Như Lai nói
với các đệ tử rằng:
- Này các Tì-kheo ! Nên nhớ
tọa thiền. Chớ có giải đãi. Cũng cần tìm phương tiện tụng tập kinh giới.
Thị giả đa văn của đức Bảo Tạng
Như Lai là Mãn Nguyện mới bạch Phật rằng:
- Bạch Thế Tôn, với các
Tì-kheo mà các căn chậm chạp u tối, không tinh tấn đối với việc hành thiền,
cũng không thể tụng tập thì làm thế nào?
Đức Bảo Tạng Như Lai trả lời:
- Nếu có Tì-kheo, các căn ám
độn, không thể thực hành thiền pháp thì nên tu ba pháp của bậc thượng nhân. Đó
là tọa thiền,[5] tụng
kinh và siêng năng giúp đỡ việc chúng”.
Lúc đó, trong chúng, có một
Tì-kheo tuổi đã lớn, không kham nổi thiền pháp, bèn nghĩ như vầy: “Ta nay đã
già yếu, không kham nỗi thiền pháp, nay nên tìm cách làm pháp siêng năng giúp đỡ”.
Nghĩ rồi liền quyết định vào thành, xin dầu thắp đèn về cúng dường đức Bảo Tạng
Như Lai khiến ánh sáng không dứt.
Công chúa Mâu-ni thấy trưởng
lão đi khất thực trên đường bèn hỏi chuyện. Biết rõ cớ sự, Mâu-ni vui mừng nói:
“Trưởng lão không cần phải đi khất thực nữa. Con sẽ cung cấp đầy đủ các loại dầu
đèn mà Trưởng lão cần dùng”.
Tì-kheo lớn tuổi nhận sự
cúng dường của công chúa. Mỗi sáng đều đến lấy dầu về cúng dường đức Bảo Tạng
Như Lai và phát thệ nguyện rằng: “Nguyện đem công đức phước nghiệp này hồi hướng
về đạo vô thượng chánh chân. Con nay tuổi đã già, căn tánh lại chậm lụt, không
thể thực hành thiền pháp mà Như Lai đã dạy, thành nguyện đem công đức này hồi
hướng để đời đời sinh ra không đọa vào đường ác. Tương lai vẫn gặp được Phật
như đức Bảo Tạng hiện nay. Cũng được gặp Thánh chúng như Thánh chúng hiện nay.
Được nghe pháp như nghe pháp hiện nay”.
Phật Bảo Tạng biết được tâm
niệm đó, mĩm cười, miệng phát ra hào quang năm sắc nói với Tì-kheo trưởng lão:
- Này Tì-kheo! Qua vô số kiếp
đời vị lai, ông sẽ làm Phật hiệu là Đăng Quang Như Lai”.
Trưởng lão nghe xong, tâm ý
phấn phát, vui mừng khôn xiết.
Mâu-ni thấy dung mạo của trưởng
lão hôm nay khác hẳn mọi ngày, bèn hỏi thăm cớ sự. Trưởng lão cười nói:
- Tôi đã được đức Bảo Tạng
thọ ký thành Phật trong tương lai hiệu là Đăng Quang Như Lai.
Mâu-ni nghe xong, cởi xe vũ
bảo đến gặp đức Bảo Tạng thưa rằng:
- Bạch Thế Tôn! Con là thí
chủ thường cung cấp dầu cho trưởng lão về cúng dường Phật. Nay ngài thọ ký cho
trưởng lão mà không thọ ký cho con.
Bảo Tạng Như Lai cười nói:
- Phát tâm thệ nguyện, phước
ấy khó lường, huống là dùng tài vật bố thí.
Dù được khen, nhưng công
chúa Mâu-ni không thấy Phật thọ ký cho mình, bèn nói:
- Nếu Như Lai không thọ ký
cho con, con sẽ tự đoạn mạng sống của mình.
Bảo Tạng Như Lai nói:
- Thân người nữ, cầu làm
Chuyển Luân không được, cầu làm Đế Thích cũng không được, cầu làm Ma vương cũng
không được, cầu làm Phật cũng không được.[6]
Mâu- ni bạch Phật:
- Vậy con không thể thành đạo
Vô thượng được sao?
Bảo Tạng Như Lai nói:
- Vẫn được. Nhưng công chúa
nên biết, qua vô số a-tăng-kì kiếp ở tương lai, có Phật ra đời hiệu là Đăng
Quang Như Lai. Phật ấy là Thiện tri thức của cô, sẽ thọ ký cho cô”.
Mâu-ni thắc mắc:
- Vì người nhận thanh tịnh
còn thí chủ uế trược chẳng?
Bảo Tạng Như Lai nói:
- Những gì ta nói hôm nay là
tâm ý thanh tịnh, phát nguyện vững chắc.
Tâm ý thanh tịnh và phát
nguyện vững chắc, là hai việc giúp thành tựu quả vị Phật.
Mâu-ni nghe xong cúi đầu lễ
sát chân Phật, nhiễu quanh Phật ba vòng rồi lui ra.
Cô không được Phật Bảo Tạng
thọ ký như Tì-kheo trưởng lão vì cô chỉ mới bố thí cúng dường, tâm chưa phát khởi
hồi hướng phước đức đó cho việc tu tập cũng như thành Phật ở tương lai. Trong
khi Tì-kheo trưởng lão dù căn tánh chậm lụt nhưng lại lập nguyện tu tập và
thành Phật rất vững chắc.
Cái quyết định thành Phật là
tâm ý thanh tịnh, lìa nhị biệt phân biệt, không phải chỉ nằm ở việc cúng dường
bố thí. Lại, cô cúng dường cho Tì-kheo trưởng lão, không phải cho đức Bảo Tạng.
Nghĩa là cô gieo duyên với Tỉ-kheo trưởng lão không phải với đức Bảo Tạng.
Thành cô sẽ nhận được sự thọ ký từ Tì-kheo trưởng lão, không phải từ đức Bảo Tạng.
Mâu-ni cùng thời với Ti-kheo
trưởng lão, cùng gặp được Phật Bảo Tạng, nhưng cô lại gieo duyên với Tì-kheo
trưởng lão. Thành phải đợi đến khi Tì-kheo trưởng lão thành Phật mới nhận được
sự thọ ký.
Việc cúng dường gieo duyên
quyết định đường đi nước bước của người tu Phật như thế, nên trong lời phát
nguyện nói trên, có phần hồi hướng “không gặp ác tri thức”. Vì gieo phải ruộng
xấu thì mất giống. Con đường tu tập chánh pháp thêm dài, ngày thành Phật thêm
xa. Cho nên, trong vấn đề tu hành, dù là tu phước hay tu đạo thì việc phát nguyện
đời đời gặp được Thiện tri thức luôn cần thiết, nhất là khi chúng ta chưa đủ
trí tuệ nhận được ai là thiện tri thức, ai là ác tri thức. Đó là lý do đức Bảo
Tạng nhấn mạnh đến hai việc mà người tu hành cần có để thành tựu quả Phật, là
tâm ý thanh tịnh và phát nguyện vững chắc. Thiếu một trong hai thì không thể
thành tựu quả Phật.
Rồi Phật kể tiếp:
Qua vô số a-tăng-kỳ, Phật
Đăng Quang xuất hiện ở đời cùng với đại chúng là mười sáu vạn tám ngàn Tỉ-kheo.
Đó là thời mà quốc vương cùng nhân dân trong nước đều kính thờ Phật.
Lúc đó trong thành có một Phạm
chí tên là Di-lặc, dung mạo hơn người, thông suốt các kinh tạng, chú thuật, thiên văn, địa lý v.v… thấy Phật Đăng Quang
tướng mạo đặc biệt thù thắng, khởi tâm hoan hỉ, dâng năm cành hoa lên Phật và
nói:
- Cúi xin đức Thế Tôn chứng
minh cho con. Nay con dâng Như Lai 5 cành hoa và đem thân này cúng dường bậc
Tôn thánh.
Nói lời đó xong, 5 cành hoa
bỗng biến thành đài báu. Phạm chí thấy vậy liền vui mừng phát nguyện: “Xin cho
con đời tương lai được làm Phật như đức Phật Đăng Quang. Đệ tử đồ chúng thảy đều
như thế”. Phật Đăng Quang biết được ý niệm đó, mĩm cười, hào quang năm sắc
trong miệng chiếu khắp Tam thiên đại thiên thế giới rồi vào lại nơi đảnh. Đó là
dấu hiệu chư Phật thọ ký cho người thành Phật[7].
Khi Phạm chí thấy điềm lành ấy,
biết là Phật đã thọ ký cho mình, liền trải tóc dưới đất mà nói:
- Nếu Phật không thọ ký cho
con, con sẽ tự hủy hoại các căn.
Phật liền thọ ký:
- Đời vị lai sau, ông sẽ được
thành Phật hiệu là Thích-ca văn Như Lai.
Kể xong, Phật nói với Ưu-bà-ly:
- Phật Đăng Quang chính là
Tì-kheo trưởng lão lúc trước. Phạm chí chính là công chúa Mâu-ni cũng là tiền
thân của ta. Nay do nhân duyên ấy mà ta nói pháp Bát quan trai này. Hãy phát
nguyện. Không có phát nguyện không có kết quả. Vì sao? Nếu ngày trước công chúa
phát nguyện như thế thì liền đó mà thành tựu sở nguyện. Nếu Tỉ-kheo trưởng lão
không phát nguyện, rốt cuộc không thành Phật đạo. Phước của thệ nguyện không thể
tính kể. Cho nên này Ưu-ba-ly, nên học theo cách như thế.
Cẩn trọng khi phát thệ nguyện
Những thệ nguyện như thành tựu
Phật quả hoặc được tu tập trong các đạo tràng của chư Phật, chư Bồ-tát v.v… thì
không nói đến hai chữ cẩn trọng.
Nói cẩn thận là với những
phát nguyện không mang tính tu tập thành Phật.
Vua Lưu Ly, trong một kiếp
làm thân cá, khi bị dòng họ Thích tàn sát, đã khởi tâm thệ nguyện: “Nương vào
những phước đức có được từ trước và sau này mà trả cho được cái hận này”. Thệ
nguyện đó được thành tựu khi ông làm vua. Vởi binh quyền trong tay ông tàn sát
tất cả, ngay với những người đang tu phạm hạnh. Kết cuộc là ông đọa vào địa ngục.
Thệ nguyện hồi hướng, nghĩa
của nó là mong muốn đạt được điều mình muốn trong tương lai, được tiếp sức bằng
những thiện nghiệp. Vì thế chỉ cần phát nguyện thì nguyện sẽ được thành tựu dù
là nguyện xấu hay nguyện tốt. Không phải nguyện tốt thì thành tựu mà nguyện xấu
không thành tựu. Phát nguyện hồi hướng thì mọi thứ đều có thể thành tựu. Nhưng
mang tất cả thiện nghiệp đã làm hồi hướng cho một việc mà việc đó chỉ đẩy mình
vào địa ngục thì quả là phí phạm.
Những loại thệ nguyện không
hướng Phật đạo mà trực chỉ phục vụ cho ngũ dục, như tiền tài, danh vọng v.v… đều
cần phải cẩn trọng. Vì dù không mang tính sân si như nguyện của vua Lưu Ly,
nhưng chúng là cái duyên dễ khiến mình gây nghiệp tạo tội. Cũng là duyên nuôi lớn
tâm ngã mạn khi Đạo chưa vững. Tâm ngã mạn hiện khởi, khổ nạn không thể dứt.
Hồi hướng mọi phước đức có
được chỉ để rơi vào cõi dữ thì quả là đáng tiếc. Vì thế cần thận trọng với những
phát nguyện không mang tính tu đạo của
mình.
Phật đã dạy về công đức cũng
như lợi ích của phát nguyện. Chúng ta cần y đó mà phát nguyện để tránh những
sai lầm đáng tiếc trong đời sống quí báu của thân người.
Dù thời nay không có Phật,
nhưng kinh luận giáo pháp lại được diễn dịch và lưu bố rộng rãi nhờ Tăng bảo.
Cũng là phước báu mà không phải ai cũng gặp được. Vì thế chúng ta cần trân quí
và thực hành những gì Phật đã dạy.
Nhân mùa Phật đản, nguyện
mang phước đức này hồi hướng khắp tất cả, đều được gặp Phật, nghe pháp, củng cố
chánh kiến, tự lợi và lợi tha thành tựu viên mãn.
[1] Kinh Tăng Nhất
A-hàm quyển 3. Phẩm Thiên Tử Mã Huyết hỏi về Bát Chánh (1).
[2] Lời của tín nữ Hằng Hà Thượng thưa với đức
Phật, trong phẩm Ưu-bà-di Hằng Hà Thượng. Kinh Đại Bửu Tích quyển 98 bản Hán.
[3] Tam Tạng Pháp Số
- Phần Bát nạn – trang 358 bản Hán :
[5] Trên nói về thiền định. Đây nói tọa thiền, là tập ngồi thiền, tức chú
trọng ở oai nghi ngồi, là pháp quan trọng cần thiết cho những người mới tập tu
thiền định.
[6] Tuy nói thân nữ,
nhưng chính là muốn nói đến nghiệp nhân từ đó có thân nữ. Với nghiệp nhân đó
thì chưa thể thành Phật. Không nói đến hàng “ý sinh thân” vì nguyện lực độ sinh
mà làm thân nữ, cũng không phải khẳng định người nữ không thể thành Phật. Kinh
Đại Bát Niết-bàn nói: “Nữ nhân thấy Phật tánh, gọi là đại trượng phu”.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét